Tin tức / Tin hoạt động các địa phương
Định hướng chuyển đổi quy mô lớn mô hình phát triển Đồng bằng sông Cửu Long
Ngày đăng: 25/09/2017
Tại Hội nghị về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu tổ chức tại thành phố Cần Thơ ngày 26-27/9, PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh, Viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách tài nguyên và môi trường đã đưa ra quan điểm đề xuất định hướng chuyển đổi mô hình phát triển bền vững vùng ĐBSCL phải dựa trên nền tảng tự nhiên và bối cảnh có những tác động của BĐKH, cũng như bối cảnh thể chế phát triển “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Quan điểm được đưa ra trên cơ sở xem xét vị thế của vùng trong mối quan hệ với các vùng khác của cả nước, từ đó đánh giá điều kiện tự nhiên, nhất là tài nguyên đất và nước; điều kiện kinh tế - xã hội gắn với đặc trưng văn hóa; cơ hội và thách thức của toàn vùng.

 
Ảnh minh họa (Nguồn: voh.com.vn)

 Theo đó, có 4 định hướng lớn gồm (1) chuyển đổi mô hình tổ chức không gian lãnh thổ phù hợp với đặc trưng của vùng (không gian ven biển và biển, ba tiểu vùng); (2) chuyển đổi cơ cấu kinh tế các nhóm ngành trong vùng gắn đặc trưng sinh thái của vùng; (3) mô hình liên kết nội vùng và ngoại vùng; (4) đổi mới mô hình hợp tác quốc tế theo đặc trưng và ưu tiên phát triển vùng ĐBSCL.

 

Cơ hội và thách thức

Về cơ hội, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, mở ra cơ hội tiếp cận thị trường và chuyên giao công nghệ trong sản xuất, nâng cao chất lượng, tăng sức mạnh cạnh tranh về giá sản phẩm.

Chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc các ngành kinh tế của đất nước sẽ được đẩy mạnh, hệ thống hạ tầng được quan tâm đầu tư, thể chế được hoàn thiện, nguồn nhân lực phát triển một bước.

Khoa học và công nghệ được quan tâm đầu tư, khuyến khích bám sát và áp dụng những thành quả của cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 của thế giới mở ra khả năng biến thách thức về tự nhiên thành cơ hội phát triển kinh tế xã hội.

Mức thu nhập của vùng và người dân ở ĐBSCL so với những năm thập niên 90 thế kỷ XX và những năm 2000 của thế kỷ XXI đã tăng lên nằm trong bối cảnh chung cả nước chúng ta đã được xếp hạng quốc gia chung thu nhập trung bình thấp.

Sự quan tâm của quốc tế đối với vùng ĐBSCL, nhất là tác động của BĐKH và duy trì hệ sinh thái đất ngập nước đặc trưng của vùng có những loài quý hiếm như Sếu đầu đỏ, tràm chim, các loài giơi,...

Tăng trưởng xanh, phát triển nền kinh tế xanh hướng đến phát triển bền vững là xu hướng chung toàn cầu và cam kết của Việt Nam.

 

Về thách thức, liên quan đến con người, về thể chế phát triển vùng, từ khi bắt đầu con người khai phá ĐBSCL đến nay, trải qua nhiều giai đoạn và thể chế khác nhau, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tuy nhiên đối với phát triển và định hướng cho vùng ĐBSCL cũng cần phải có một thể chế đặc thù của vùng này và các địa phương trong vùng với những đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội nhằm tạo cho động lực phát triển vùng đảm bảo đúng hướng và bền vững, đây là một thách thức lớn.

Hạn chế trong nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền; ý thức trách nhiệm về bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu của các cán bộ lãnh đạo, quản lý và người dân chưa cao; hành vi của từng người dân, thái độ ứng xử của xã hội đối với khai thác và sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường chưa phù hợp, thân thiện.

Trình độ phát triển của vùng ĐBSCL còn ở mức thấp, tiềm lực kinh tế chưa mạnh, tăng trưởng đang có biểu hiện chậm lại, nguồn lực tài chính hạn chế, hạ tầng kỹ thuật yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu.

Tổ chức lãnh thổ và cơ cấu ngành nghề sản xuất của vùng tồn tại nhiều bất cập, chưa đánh giá đúng các điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của Đồng bằng sông Cửu Long để có thể có những giải pháp phù hợp với sự vận hành của thể chế kinh tế thị trường. Cơ sở hạ tầng của vùng kém phát triển, chưa phù hợp với đặc thù của vùng. Đặc biệt là hệ thống giao thông, hệ thống điện, hệ thống cấp nước, hệ thống trường học và trạm y tế,. ảnh hưởng hạn chế nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội của vùng, nhất là khi triển khai công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Bên cạnh những thách thức liên quan đến con người, biến đổi khí hậu đã và đang tác động mạnh đến vùng ĐBSCL, diễn biến phức tạp và nhanh hơn so với dự báo. Các hiện tượng thiên tai cực đoan như bão, hạn hán, nước biển dâng, xâm nhập mặn diễn biến thất thường, cực đoan hơn.

Tài nguyên thiên nhiên của vùng tiếp tục bị suy giảm, khai thác mạnh hơn dẫn tới cạn kiệt, nhất là tài nguyên không tái tạo. An ninh nguồn nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng do tác động BĐKH trên toàn lưu vực sông Mê Kong và bị chi phối mạnh bởi hoạt động khai thác quá mức, trái quy luật tự nhiên của các quốc gia khu vực thượng nguồn sông. Đất đai đã có nhiều thay đổi do quá trình khai thác phát triển kinh tế trong một thời gian dài, gia tăng diện tích bị nhiễm mặn, phèn, thoái hóa và ô nhiễm do sử dụng nhiều hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật.

Về môi trường, so với trước đây, hệ sinh thái tự nhiên ĐBSCL đã bị suy giảm diện tích rừng ngập mặn, xói lở bờ biển, đa dạng sinh học giảm sút, có loài tiệt chủng hoàn toàn như trâu rừng, hệ sinh thái nước ngọt, nước lợ và nước mặn đều nằm trong tình trạng chung là suy giảm. Ô nhiễm nguồn nước, chất thải rắn gia tăng nhanh trong khi sức chịu tải của vùng hạn chế.

 

Toàn cảnh Hội nghị phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu

 

Đề xuất định hướng đổi mới mô hình phát triển bền vững vùng ĐBSCL

Qua đánh giá toàn diện, PGS.TS Nguyễn Thế Chinh đề xuất định hướng dựa trên quan điểm: “Chuyển đổi mô hình phải dựa vào nền tảng tự nhiên nhất là đất và nước, thích ứng biến đổi khí hậu là cơ sở tiền đề; những yếu tố tác động bên ngoài và xu thế phát triển chung về kinh tế - xã hội của vùng ĐBSCL cần phải được tính đến và đặt trong bối cảnh thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang quá trình hoàn thiện dần.”

 

Đổi mới tổ chức không gian lãnh thổ

Tổ chức lại không gian và lãnh thổ để xác lập mô hình khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên của vùng ĐBSCL dựa trên đặc trưng sinh thái vùng nhất là đất, nước gắn với con người, xét trong bối cảnh thích ứng BĐKH và các tác động ngoại biên.

Chú trọng phát huy thế mạnh của các tiểu vùng dựa trên đặc trưng sinh thái tự nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu và tác động kép từ ngoại biên (vùng ngập lũ (ngập sâu và kéo dài từ 2-3 tháng/năm), vùng giữa (vùngphù sa nước ngọt, ngập nông và nhiễm mặn nhẹ), và vùng ven biển (trên 6 tháng bị nhiễm mặn ở các mức độ))

Dựa vào dự báo của kịch bản biến đổi khí hậu ĐBSCL, việc ứng phó với nước biến dâng là không tránh khỏi từ nay cho đến 100 năm nữa gắn với quy luật phát triển kinh tế-xã hội theo lãnh thổ,_ để giải quyết trong ngắn hạn và dài hạn, cần xác định rõ những cực tăng trưởng của vùng đã có và sẽ xuất hiện. Thường cực tăng trưởng gắn với những khu đô thị, công nghiệp, bến cảng, sân bay nơi mà chúng ta đã và sẽ đầu tư phát triển không thể di dời cần hướng đến giải pháp cứng. Nhữngng khu vực phát triển nông nghiệp và duy trì hệ sinh thái tự nhiên cần ưu tiên sử dụng giải pháp mềm, biến thách thức thành cơ hội “sống chung với nước biển dâng và xâm nhập mặn” để chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp.

Tổ chức không gian biển và ven bờ thành không gian mở ra biển của vùng, đảm bảo phát triển kinh tế-xã hội gắn với an ninh, quốc phòng dựa trên đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu và vị thế của vùng.

 

Chuyển đổi cơ cấu ngành của vùng ĐBSCL

Đổi mới cách tiếp cận phát triển cơ sở hạ tầng của vùng dựa trên đặc trưng tự nhiên, tác động biến đổi khí hậu và nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong tương lai. Vì đây là vùng có địa hình thấp, trũng lưu thông luân chuyển nguồn nước và nền đất yếu, nên cần phải thiết kế hệ thống đường giao thông phù hợp trong một mạng lưới liên thông, quy hoạch gắn kết các loại đường phù hợp, đường bộ, đường thủy, ven biển, tương lai cả đường sắt để có sự hỗ trợ và bổ sung cho nhau.

Đổi mới mô hình tổ chức lãnh thổ phát triển nông nghiệp với tầm nhìn dài hạn dựa trên đặc trưng sinh thái của vùng theo hướng nâng cao chất lượng, lựa chọn sản phẩm giá trị cao dựa trên cơ sở áp dụng khoa học, kỹ thuật công nghệ và định hướng đáp ứng nhu cầu thị trường, đạt mục tiêu hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường. Trước hết là mô hình nông nghiệp lúa nước, thủy sản nuôi và tự nhiên, cây ăn quả có giá trị cao.

Đổi mới mô hình tổ chức lãnh thổ phát triển công nghiệp dựa trên đặc điểm tự nhiên của vùng, lựa chọn ngành nghề phù hợp, ưu tiên phát triển công nghiệp xanh, ít phát thải, không gây tổn hại đến hệ sinh thái tự nhiên, đáp ứng đúng nhu cầu thị trường mang lại hiệu quả tổng thể lớn nhất. Trước hết là mô hình công nghiệp chế biến gắn với nông sản, thủy sản và chế biến hoa quả tạo thành chuỗi giá trị của vùng đáp ứng nhu cầu thị trường cần.

Đổi mới mô hình tổ chức lãnh thổ phát triển dịch vụ - du lịch dựa trên đặc điểm tự nhiên, sinh thái của vùng theo hướng lựa chọn những sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế cao (tiếp cận theo chuỗi giá trị) định hướng theo nhu cầu thị trường. Trước hết là các ngành dịch vụ ngân hàng, tài chính, thương mại gắn với quảng bá, tiếp thị sản phẩm nông sản và hải sản của vùng, giảm bớt các khâu trung gian. Phát triển các loại hình du lịch miệt vườn, du lịch sông nước, du lịch sinh thái gắn với các khu bảo tồn thiên nhiên.. .đáp ứng yêu cầu thị trường.

 

Tăng cường mô hình liên kết địa phương và vùng dựa trên lợi thế so sánh của từng địa phương và toàn vùng ĐBSCL

Liên kết giữa các địa phương trong vùng dựa trên đặc trưng sinh thái, tiềm năng tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, hạ tầng và phát huy ưu thế của các địa phương để bổ sung cho nhau. Để có sự liên kết phải dựa trên nguyên tắc “đôi bên cùng có lợi” để cùng phát triển, lấy động lực kinh tế-xã hội để liên kết.

Liên kết giữa ĐBSCL với thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh khác của vùng Đông Nam Bộ. Liên kết này chủ yếu là dịch vụ và trao đổi hàng hóa.

Liên kết của vùng ĐBSCL với các vùng khác trong cả nước dựa trên ưu thế tự nhiên tạo ra sản phẩm của vùng. Tùy theo từng vùng để xác lập mô hình liên kết phù hợp và đảm bảo tính hiệu quả kinh tế cao.

 

Hợp tác quốc tế cho phát triển ĐBSCL

Đổi mới mô hình hợp tác quốc tế dựa trên cơ sở đồng thuận, cùng có lợi; duy trì hệ sinh thái vùng trong bối cảnh biến đổi khí hậu, thực hiện tăng trưởng xanh, xây dựng nền kinh tế xanh của vùng hướng đến phát triển bền vững.

 

Kết luận, từ thực tiễn phát triển các mô hình trước đây, dựa trên lợi thế và khả năng chịu tải của vùng ĐBSCL, đặc trưng về kinh tế-xã hội và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, khắc phục thách thức, tận dụng cơ hội để chuyển đổi mô hình phát triển vùng ĐBSCL sang mô hình kinh tế xanh hướng đến phát triển bền vững. Chuyển đổi mô hình phát triển bên vững của vùng cơ bản là chuyển đổi về tổ chức không gian lãnh thổ và chuyển đổi cơ cấu sản xuất ngành nghề trong vùng ĐBSCL phải dựa trên nền tảng tự nhiên nhất là đất, nước và con người ở đây xét trong bối cảnh BĐKH và những tác động ngoại biên đến vùng. Để có sự chuyển đổi mô hình định hướng đúng và hiệu quả, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng từ nguồn gốc hình thành vùng và nhất là từ khi con người bắt đầu di cư đến và khai phá, phát triển vùng này, khoảng 330 năm trước đây trên cơ sở nghiên cứu lịch sử và quá trình khai phá vùng ĐBSCL, tiếp tục nghiên cứu bài bản, từng ngành, từng lĩnh vực, từng tiểu vùng và toàn vùng, từ đó có một chiến lược tổng thể và xây dựng các chương trình phát triển cho ngắn hạn và dài hạn.

CTTĐT

Các tin khác