Tin tức / Tin hoạt động các địa phương
Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu
Ngày đăng: 30/09/2017
Thực hiện ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu ngày 26 và 27 tháng 9 năm 2017 tại Thành phố Cần Thơ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan xây dựng và trình Chính phủ dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.

 Cần ngay các giải pháp tổng thể, căn cơ trước mắt và lâu dài, định hình mô hình phát triển mới cho ĐBSCL

Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh, lịch sử, văn hoá, con người. Tuy nhiên, vùng châu thổ trẻ, “rất mẫn cảm với mọi tác động lên nó” này cũng đang và sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức mang tính sống còn. Biến đổi khí hậu và nước biển dâng đã ảnh hưởng nặng nề trong 100 năm qua tại đây. Khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn châu thổ, trong đó có việc chuyển nước sông Mê Công là nguy cơ lớn. Các hoạt động kinh tế cường độ cao của con người đã gây ra nhiều hệ luỵ, hiện tượng sụt lún với tốc độ nhanh, sạt lở diễn ra ngày càng nghiêm trọng, môi trường bị suy thoái do ô nhiễm nước, không khí, tàn phá rừng ngày càng nặng nề. Bên cạnh đó, khu vực này đang là vùng trũng về giáo dục đào tạo, ứng dụng khoa học công nghệ; cơ giới hoá và hạ tầng cơ sở chưa tương xứng với tiềm năng của đồng bằng trong khi nhân lực chất lượng cao đang có xu hướng dịch chuyển khỏi vùng, nhất là trong bối cảnh vùng đang chịu ảnh hưởng lớn nhất của biến đổi khí hậu và khoảng cách phát triển ngày càng xa với thế giới trong làn sóng cách mạng 4.0.

Diện tích đất rừng bị suy giảm, trong đó diện tích đất rừng ngập mặn trong 50 năm qua đã giảm 80%; việc gia tăng thời vụ và sản xuất nông nghiệp quá sức phục hồi của đất. Quy hoạch, đầu tư phát triển chưa đồng bộ, thiếu liên kết trong khi ĐBSCL là một thể thống nhất, có gắn kết chặt chẽ với vùng thành phố Hồ Chí Minh và tiểu vùng Mê Công. Khai thác quá mức nước ngầm làm mặt đất sụt lún cùng với nước biển dâng làm tăng nguy cơ ngập lụt. Phát triển, bố trí các khu dân cư chưa hợp lý cùng với khai thác bùn, cát và thiếu hụt lượng phù sa, bùn cát bổ sung dẫn đến sạt lở. Hệ sinh thái mất cân bằng, môi trường ô nhiễm, đa dạng sinh học suy giảm. Quản lý nhà nước chồng chéo nhưng thiếu phối hợp; thiếu các cơ chế và quy hoạch tiếp cận theo vùng. Ở góc độ khu vực, nhu cầu khai thác, sử dụng nước ở thượng nguồn gia tăng mạnh, làm giảm dòng chảy mùa kiệt, giảm lượng phù sa của vùng đồng bằng. Lũ nhỏ cùng với triều cường nước biển dâng làm xâm nhập mặn sâu hơn vào nội vùng. Suy giảm nguồn lợi thuỷ sản, tác động tiêu cực đến thuỷ sinh và đa dạng sinh học của vùng. Biến đổi khí hậu cũng đang tạo ra những thách thức to lớn. Nước biển dâng, hạn hán gia tăng trong khi khả năng chống chịu của đồng bằng còn thấp. Rủi ro do thiên tai, các hiện tượng khí hậu cực đoan (mưa, bão, giông tố, lốc xoáy...) ngày càng khó lường.

Thực tế đó đòi hỏi Chính phủ cần có ngay các giải pháp tổng thể, căn cơ trước mắt và lâu dài, định hình mô hình phát triên mới nhằm biến thách thức thành cơ hội phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu trên cơ sở phát huy tối các lợi thế về tài nguyên đất đai, nguồn nước, khí hậu, biển, đảo, văn hoá và con người.

 

ĐBSCL nằm ở vùng cực Nam của Tổ quốc, hạ nguồn sông Mê Công, là vùng đất độc đáo, giàu bản sắc văn hoá, con người sáng tạo và cần cù lao động, có điều kiện tự nhiên phong phú, là nơi dự trữ nước ngọt lớn nhất của nước ta, có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế, một trong những trung tâm sản xuất lúa gạo lớn của thế giới, nơi sinh sống của gần 20 triệu người dân Việt Nam; đóng góp 54% sản lượng lúa, 70% lượng thủy sản nuôi trồng, 36,5% lượng trái cây cả nước và là đầu tàu xuất khẩu nông sản khi cung cấp 90% sản lượng gạo xuất khẩu; hầu hết toàn bộ sản lượng cá tra xuất khẩu; 60% kim ngạch xuất khẩu tôm và đang tăng mạnh sản lượng trái cây xuất khẩu với kim ngạch khoảng 1 tỷ đô/năm.

Trong suốt quá trình lịch sử phát triển, các thế hệ cha anh đã hy sinh mồ hôi, xương máu để tạo dựng nên vùng đất trù phú. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm, có nhiều chủ trương, giải pháp lớn để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng đối với toàn vùng phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đóng góp quan trọng vào thành tựu phát triển bền vững của đất nước, trước hết là an ninh lương thực và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam.

 

Tầm nhìn đến năm 2100 và năm 2050

Theo khung thời gian của Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam, tầm nhìn đến năm 2100, ĐBSCL phát triển bền vững, an toàn, thịnh vượng, mở ra khu vực Đông Nam Á, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, phát triển phù hợp nông nghiệp hàng hoá lớn chất lượng cao, kết hợp với dịch vụ, du lịch sinh thái, công nghiệp, đẩy mạnh phát triển kinh tế biển; có cơ sở hạ tầng được quy hoạch, phát triển theo hướng chủ động, thông minh với nước, thích ứng biến đổi khí hậu, đời sống vật chất tinh thần của người dân được nâng cao. Tầm nhìn đến năm 2050, xác định một số chỉ tiêu về trình độ phát triển, thu nhập bình quân đầu người, phát triển hạ tầng, sinh kế cho người dân ĐBSCL.

 

Kiến tạo phát triển bền vững, thịnh vượng, trên cơ sở chủ động thích ứng, biến thách thức thành cơ hội

Có 03 quan điểm chính, đề cập đến nội dung về kiến tạo phát triển bền vững, thịnh vượng, trên cơ sở chủ động thích ứng, biến thách thức thành cơ hội, bảo đảm được cuộc sống ổn định, khá giả của người dân cũng như bảo tồn được những giá trị truỵền thống văn hoá của ĐBSCL về đất, nước và đặc biệt là con người; về thay đổi tư duy phát triển, trọng tâm là chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp thuần túy, sang tư duy kinh tế nông nghiệp, gắn với chuỗi giá trị, chú trọng công nghiệp chế biến và công nghiệp hỗ trợ; về mô hình phát triển, tôn trọng quy luật tự nhiên, thích ứng theo tự nhiên, theo phương châm chủ động sống chung với lũ, với mặn, với khô hạn, thiếu nước phù hợp với điều kiện thực tế.

 

Mô hình phát triển phải lấy con người làm trung tâm, phục vụ người dân

Thêm vào đó là chú trọng về chất lượng hơn là số lượng, chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu, chủ động, linh hoạt, nâng cao hiệu quả kinh tế, bảo tồn giá trị văn hoá lịch sử, sự đa dạng sinh học và môi trường sinh thái. Khai thác tối đa các lợi thế về tài nguyên biển để đưa kinh tế biển phát triển tương xứng với tiềm năng.

 

Xác định biến đổi khí hậu và nước biển dâng là xu thế tất yếu, phải sống chung và thích nghi, phải biến thách thức thành cơ hội

Chủ động sống chung với lũ, với mặn, với thiếu nước. Lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi, trung tâm, làm cơ sở xuyên suốt cho việc hoạch định chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển vùng. Tài nguyên nước phải được quản lý tổng hợp trên toàn lưu vực và theo lưu vực. Coi nước lợ, nước mặn là nguồn lực của tài nguyên, bên cạnh tài nguyên nước ngọt. Tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả tiết kiệm và bền vững tài nguyên nước, đất đai và các tài nguyên khác trong vùng. Chú trọng phát triển vùng duyên hải, vùng đặc quyền kinh tế và vị trí địa chính trị của đồng bằng, áp dụng kinh nghiệm và công nghệ mới, khắc phục nhân tai và đối phó với thiên tai.

 

Việc chuyển đổi mô hình phát triển phải dựa trên hệ sinh thái

Đảm bảo sự hài hoà về điều kiện tự nhiên, về đất, về nước, về đa dạng sinh học và văn hoá, con người, kế thừa các thành tựu giá trị nhân văn và tri thức bản địa, phù hợp với các quy luật tự nhiên; đảm bảo tính ổn định, sinh kế của người dân, trong đó người dân và doanh nghiệp đóng trung tâm, Nhà nước đóng vai trò định hướng, dẫn dắt; chú trọng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, nhất là các lợi thế của Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Quá trình chuyển đổi cần có tầm nhìn dài hạn, ưu tiên cho thích ứng với biến đổi khí hậu nhưng cũng phải tận dụng các cơ hội để phát triển kinh tế các-bon thấp, kinh tế xanh, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên.

 

Tiếp cận tổng thể, tích hợp, chú trọng hợp tác liên kết phát triển

Đồng thời đây cũng là cách tiếp cận nhằm tạo lập liên kết phát triển giữa các địa phương trong vùng và giữa vùng ĐBSCL với Thành phố Hồ Chí Minh và cả miền Đồng Nam Bộ, giữa Tây Nam Bộ với Đông Nam Bộ, giữa Việt Nam với các nước, trước hết là các nước thuộc tiểu vùng sông Mê Công.

Mọi hoạt động đầu tư phải được điều phối thống nhất, bảo đảm tính chất liên vùng, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình hợp lý, trong đó trước mắt tập trung ưu tiên các công trình cấp bách có tính chất "không hối tiếc", các công trình có tính chất động lực, thúc đẩy phát triển kinh tế toàn vùng, các công trình thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân.

Chủ động hợp tác với các nước trên lưu vực sông Mê Công trên cơ sở cùng có lợi để chuyển hoá thách thức thành cơ hội, tăng cường hợp tác với các quốc gia ven sông Mê Công thông qua các sáng kiến hợp tác vùng và hợp tác song phương nhằm cùng nhau sử dụng hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên nước và các tài nguyên có liên quan trong lưu vực sông Mê Công.

 

Các giải pháp tổng thể, các nhiệm vụ cụ thể và tổ chức thực hiện

Tại Hội nghị, nhiều giải pháp tổng thể được thảo luận và cân nhắc, trong đó tập trung vào nhóm các giải pháp chủ yếu như: (i) Xây dựng quy hoạch tích hợp phát triển bền vững, rà soát, điều chỉnh, bổ sung và lập mới các quy hoạch phát triển ngành, lãnh thổ ĐBSCL. (ii) Tổ chức không gian lãnh thổ theo hướng dựa trên đặc trưng sinh thái đất, nước, gắn với văn hoá, con người trong bối cảnh thích ứng với biến đổi khí hậu theo các kịch bản và các tác động từ bên ngoài; xác định rõ các cực tăng trưởng của vùng và có quy hoạch các khu đô thị, công nghiệp, bến cảng, sân bay và những khu vực phát triển nông nghiệp, kinh tế biển và các ngành kinh tế khác, bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, bảo đảm gắn kết chuỗi sản phẩm hàng hoá, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Ưu tiên công nghiệp hỗ trợ cho nền kinh tế nông nghiệp; phát triển công nghiệp xanh, ít phát thải, không gây tổn hại đến hệ sinh thái tự nhiên, tập trung công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản tạo thành chuỗi giá trị của vùng. Phát triển dịch vụ-du lịch dựa trên đặc điểm tự nhiên, sinh thái, văn hoá, con người với hiệu quả kinh tế cao. (iii) Tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều phối phát triển vùng để nâng cao hiệu quả, thực chất, thu gọn đầu mối, lấy quản lý thông minh tài nguyên nước và thích ứng với biến đổi khí hậu làm trọng tâm xuyên suốt. Để thực hiện các giải pháp tổng thể này, việc xây dựng và thwchi hiện đồng bộ các nhiệm vụ cụ thể, cấp bách; cũng như giao trách nhiệm thực hiện cụ thể cho các Bộ, ngành địa phương, cơ quan đơn vị liên quan là những yêu cầu then chốt cho thành công của việc phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu.

CTTĐT

Nguồn: Monre

Các tin khác