Dự án /   /  Dự án nước ngoài
Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC của Việt Nam - Giai đoạn I
Ngày đăng: 22/05/2018 Tải file đính kèm
Ngày 16 tháng 6 năm 2017 tại TP. Hồ Chí Minh, Ban Quản lý Dự án “Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC của Việt Nam-giai đoạn I”, Cục Biến đổi khí hậu thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì tổ chức Hội thảo tổng kết, kết thúc Dự án. Dự án do Quỹ Đa phương thi hành Nghị định thư Montreal (MLF) viện trợ không hoàn lại với tổng kinh phí 9.763.820 USD. Ngân hàng Thế giới (WB) là cơ quan quốc tế thực hiện Dự án theo ủy thác của MLF. Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chủ quản Dự án và Cục Biến đổi khí hậu được giao là cơ quan chủ trì, điều phối các hoạt động thực hiện Dự án. Dự án được triển khai trong giai đoạn 2012-2017. Mục tiêu dài hạn của Dự án là hỗ trợ Việt Nam loại trừ hoàn toàn tiêu thụ các chất HCFC theo đúng lộ trình và các quy đ

Nội dung Hội thảo được tóm tắt như sau:

Ông Nguyễn Khắc Hiếu, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Giám đốc Ban Quản lý Dự án (giai đoạn I) thay mặt Ban Quản lý Dự án phát biểu khai mạc Hội thảo, nhiệt liệt chào mừng và chân thành cảm ơn các đại biểu đến dự Hội thảo. Ông Nguyễn Khắc Hiếu đã nhấn mạnh ý nghĩa và tầm quan trọng của việc chuyển đổi từ sử dụng công nghệ cũ sang sử dụng công nghệ mới thông qua việc thực hiện Dự án và nêu rõ những kết quả đạt được là nhờ  sự chỉ đạo, phối hợp của  các cơ quan quản lý nhà nước, sự hỗ trợ kịp thời của các tổ chức quốc tế có liên quan và sự tham gia tích cực, hiệu quả của các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện Dự án. Ông Nguyễn Khác Hiếu cũng nêu bật một số kết quả chính của Dự án, đó là:

- 11 nhà sản xuất bọt PU đã được lựa chọn tham gia Dự án để chuyển đổi công nghệ sản xuất bọt từ HCFC-141b sang cyclopentane và hệ thống nước. 11 doanh nghiệp đã thực hiện các tiểu dự án và chuyển đổi công nghệ, 01 doanh nghiệp không thể thực hiện tiểu dự án do ngừng sản xuất xốp. Đến tháng 5 năm 2017, tất cả 11 doanh nghiệp đều đã hoàn thành việc chuyển đổi thành công. Gần 1.300 tấn HCFC-141b nguyên chất và trộn sẵn trong polyol đã bị loại trừ tại 11 doanh nghiệp này, đây là những doanh nghiệp sử dụng HCFC-141b nhiều nhất, chiếm hơn 25% tổng lượng các chất HCFC-141b trong tiêu thụ polyol trộn sẵn ở Việt Nam;

- Việc kiểm soát nhập khẩu và xuất khẩu các chất HCFC và HCFC-141b trong polyol trộn sẵn đã được các Cơ quan Hải quan tiến hành một cách chặt chẽ. Hạn ngạch HCFC và hệ thống cấp phép nhập khẩu được thiết lập để hướng dẫn quản lý xuất nhập khẩu, tạm nhập-tái xuất các chất ODS đảm bảo tuân thủ đúng theo các quy định của Nghị định thư Montreal ở Việt Nam.

Thay mặt Cục Biến đổi khí hậu, Ban Quản lý Dự án, ông Nguyễn Khắc Hiếu chân thành cảm ơn sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường đối với các hoạt động của Dự án; sự hợp tác, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả các đơn vị liên quan của Bộ TNMT, các đơn vị liên quan của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (đặc biệt là Cục Chế biến và Phát triển nông sản), các đơn vị của Bộ Công Thương (nhất là Vụ Xuất nhập khẩu), các đơn vị của Tổng cục Hải quan, trong đó có Cục Điều tra chống buôn lậu; sự tài trợ kịp thời của Quỹ Đa phương thi hành Nghị định thư Montreal và Ban chấp hành Quỹ; sự hỗ trợ kỹ thuật của Ngân hàng Thế giới, trong đó có nhóm dự án Nghị định thư Montreal, bà Qing Wang; sự hợp tác, tham gia tích cực của các doanh nghiệp hưởng thụ Dự án, các Trường dạy nghề/ Trung tâm đào tạo chuyên ngành về điện lạnh, điều hòa không khí. Sự thành công của Dự án là kết quả của những nỗ lực hợp tác hiệu quả của tất cả các bên tham gia Dự án và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai Dự án-giai đoạn II trong thời gian tới, góp phần quan trọng vào việc thực hiện Nghị định thư Montreal tại Việt Nam.

Bà Qing Wang phát biểu chào mừng Hội thảo, cảm ơn sự hợp tác hiệu quả của Ban  Quản lý Dự án, các doanh nghiệp tham gia Dự án trong quá trình thực hiện Dự án. Bà Qing Wang đánh giá cao nỗ lực điều hành thực hiện Dự án của Ban Quản lý Dự án; sự quan tâm, chỉ đạo của Bộ Tài nguyên và Môi trường; sự hợp tác chặt chẽ của các cơ quan chức năng liên quan của Việt Nam như Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng cục Hải quan. Dự án đã kết thúc thành công và đúng thời gian đã quy định. Kết quả của Dự án giúp Việt Nam đáp ứng kịp thời các mục tiêu trong giai đoạn 2013-2015 trong khuôn khổ Nghị định thư Montreal. Bà Qing Wang cũng lưu ý các doanh nghiệp thận trọng áp dụng các biện pháp đảm bảo an toàn cyclopentane dễ cháy. Bà Qing Wang tin tưởng rằng Dự án-giai đoạn II của Việt Nam sẽ được phê duyệt vào cuối năm 2017 và bắt đầu triển khai vào đầu năm 2018.

Ngoài ra, bà Qing Wang cũng đồng ý với ông Nguyễn Khắc Hiếu là cần thuê hoặc thành lập một nhóm tư vấn về luật giúp các doanh nghiệp xử lý các quy định và yêu cầu của Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới. Bên cạnh đó, Ban Quản lý Dự án cũng nên thành lập một nhóm chuyên gia kỹ thuật để giúp các doanh nghiệp kiểm tra chéo các yêu cầu pháp lý này. Bà Qing Wang gợi ý là các nhà sản xuất điều hòa không khí cùng một số doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực điện lạnh và xốp có thể tham gia Dự án-giai đoạn II. Các doanh nghiệp hàng đầu này sẽ thiết lập các phương thức hoạt động thực hiện các tiểu dự án với nội dung rõ ràng và các bước thực hiện cụ thể.

Tại Hội thảo, ông Lương Đức Khoa, Điều phối viên Dự án-giai đoạn I đã báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện Dự án-giai đoạn I qua việc hoàn thành nội dung các cấu phần chính của Dự án như sau:

·        Cấu phần 1: Đầu tư loại trừ tiêu thụ HCFC-141b trong lĩnh vực sản xuất xốp:

10 doanh nghiệp đã chuyển đổi thành công sang công nghệ cyclopentane và 01 doanh nghiệp đã chuyển đổi thành công sang hệ thống nước. Thông qua hoạt động chuyển đổi sang công nghệ mới của 11 doanh nghiệp tại cấu phần 1 đã loại trừ hoàn toàn 462 tấn HCFC-141b nguyên chất và 812,6 tấn HCFC-141b trộn sẵn trong polyol, tổng số HCFC-141b bị loại trừ là 1.274,6 tấn.

·        Cấu phần 2: Hoạt động hỗ trợ kỹ thuật:

Cấu phần này có mục tiêu hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến xây dựng, áp dụng và phổ biến rộng rãi các biện pháp chính sách và kỹ thuật đồng bộ, song song với việc hỗ trợ tài chính của Quỹ Đa phương thi hành Nghị định thư Montreal để loại trừ thành công các chất HCFC theo đúng quy định của Nghị định thư Montreal và thuê chuyên gia kỹ thuật hỗ trợ thực hiện các hoạt động Dự án.

Về chính sách, Bộ Công Thương và Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư liên tịch số 47/2011/TTLT-BCT-BTNMT ngày 30 tháng 12 năm 2011 quy định việc quản lý nhập khẩu, xuất khẩu và tạm nhập-tái xuất các chất làm suy giảm tầng ô-dôn theo quy định của Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành văn bản số 132/BTNMT-HTQT ngày 16 tháng 01 năm 2014 về việc thực hiện các biện pháp giảm cầu về các chất HCFC ở Việt Nam gửi các Bộ, ngành, cơ quan và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kiến nghị ngừng cấp phép thành lập mới hoặc mở rộng sản xuất đối với các doanh nghiệp sử dụng các chất HCFC. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành văn bản số 2139/BTNMT-BĐKH ngày 03 tháng 5 năm 2011 về việc thực hiện các biện pháp giảm cầu polyol trộn sẵn HCFC-141b gửi các Bộ, ngành, cơ quan và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kiến nghị ngừng cấp phép thành lập mới hoặc mở rộng sản xuất đối với các doanh nghiệp sử dụng polyol trộn sẵn HCFC-141b. Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu (nay là Cục Biến đổi khí hậu) đã ban hành văn bản số 1477/ KTTVBĐKH-GSPT ngày 29 tháng 12 năm 2014 về việc chấm dứt hoàn toàn nhập khẩu, xuất khẩu HCFC-141b kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015.

Về trợ kỹ thuật, Ban Quản lý Dự án đã thực hiện các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật như: (i) Xây dựng phần mềm hệ thống quản lý thông tin xuất nhập khẩu HCFC; (ii) Xây dựng kế hoạch tổng thể giảm phát thải HCFC trong lĩnh vực kho lạnh thủy sản bao gồm giảm lắp đặt mới các thiết bị làm lạnh sử dụng môi chất lạnh HCFC-22, nâng cao hiệu suất năng lượng của các thiết bị làm lạnh hiện đang sử dụng; (iii) Biên soạn tài liệu  kỹ thuật cho đội ngũ công nhân kỹ thuật nhằm mục đích giảm tiêu thụ HCFC-22 trong lĩnh vực kho lạnh thủy sản; (iv) Biên soạn sách, chương trình video hướng dẫn lắp đặt, bảo dưỡng, sửa chữa điều hòa không khí, thiết bị lạnh công nghiệp và điều hòa không khí trung tâm; (v) Hỗ trợ các doanh nghiệp thụ hưởng xây dựng văn kiện tiểu dự án và báo cáo kết thúc tiểu dự án;

(vi) Kiểm toán số liệu tiêu thụ các chất HCFC trong các năm 2013, 2014 và 2015 theo yêu cầu và ràng buộc của Quỹ Đa phương thi hành Nghị định thư Montreal.

Trong khuôn khổ của Dự án-giai đoạn I, nhiều hội thảo, tập huấn đã được tổ chức, trong đó có:

- Cục Điều tra chống buôn lậu, Tổng cục Hải quan đã chủ  trì, phối hợp với Ban Quản lý Dự án tổ chức 06 khóa huấn luyện hải quan về kiểm soát xuất nhập khẩu các chất HCFC tại khu vực phía Bắc, miền Trung và miền Nam. Thông qua các khóa huấn luyện này, 487 cán bộ hải quan đã được tập huấn, nâng cao trình độ về kiểm soát xuất nhập khẩu các chất HCFC;

- Cục Chế biến thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chủ trì, phối hợp với Ban Quản lý Dự án tổ chức 06 hội thảo huấn luyện cho các chủ cơ sở và các kỹ thuật viên kho lạnh về giảm sử dụng HCFC và thiết bị có sử dụng HCFC. 625 chủ cơ sở và kỹ thuật viên kho lạnh đã được tập huấn;

- Ban Quản lý Dự án đã phối hợp với Hội Khoa học-Kỹ thuật lạnh và điều hòa không khí Việt Nam tổ chức 04 hội thảo về loại trừ các chất HCFC và tiết kiệm năng lượng, nâng cao hiệu quả năng lượng trong lĩnh vực điện lạnh và điều hòa không khí với tổng số đại biểu tham dự là 337;

- Ban Quản lý Dự án đã phối hợp với các Hội điện lạnh và điều hòa không khí, các Trường dạy nghề của các tỉnh, thành phố tổ chức 09 hội thảo tập huấn dành cho các kỹ thuật viên của các cơ sở dịch vụ về thực hành tốt khi sửa chữa, bảo dưỡng thiết bị điện lạnh và điều hòa không  khí và về tránh phát thải HCFC ra môi trường bên ngoài. 1.209 kỹ thuật viên làm việc trong lĩnh vực dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng thiết bị điện lạnh và điều hòa không khí đã được tập huấn, nâng cao trình độ nghiệp vụ;

- Ban Quản lý Dự án đã phối hợp với các nhà cung cấp hóa chất, các nhà sản xuất thiết bị sản xuất xốp và Phòng cảnh sát phòng cháy chữa cháy tại các địa phương có các doanh nghiệp thụ hưởng, tổ chức các khóa huấn luyện đào tạo cho các kỹ thuật viên, nhân viên của các doanh nghiệp thụ hưởng về an toàn trong quá trình sản xuất theo công nghệ mới, cách phòng tránh bệnh nghề nghiệp và các biện pháp an toàn khi làm việc, tiếp xúc với cyclopentane.

·        Cấu phần 3: Quản lý Dự án:

Cấu phần này cung cấp tài chính cho hoạt động của Ban Quản lý Dự án và cho các hoạt động do Ban Quản lý Dự án trực tiếp tổ chức và thực hiện, bao gồm:

·        Tổ chức thăm quan nghiên cứu về công nghệ cyclopentane cho các doanh nghiệp sản xuất xốp tham gia loại trừ các chất HCFC-141b theo cấu phần 1 của Dự án và đại diện một số cơ quan quản lý nhà nước có liên quan;

·        Sản xuất chương trình truyền hình loạt bài giảng, các hướng dẫn thực hành về lắp đặt, bảo trì, bảo dưỡng và sửa chữa điều hòa không khí gia dụng nhằm nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân kỹ thuật trong lĩnh vực điều hòa không khí;

·        Sản xuất chương trình truyền hình công nghệ cyclopentane và chuyển đổi thành công từ các chất HCFC-141b sang cyclopentane tại 11 doanh nghiệp tham gia Dự án loại trừ các chất HCFC-141b nguyên chất;

·        In 1.500 quyển tài liệu về nguyên tắc thực hành tốt khi thực hiện bảo trì bảo dưỡng điều hòa không khí sử dụng môi chất lạnh HCFC-22 và phát cho các kỹ thuật viên làm việc trong lĩnh vực bảo trì, bảo dưỡng điều hòa không khí trên cả nước;

·        In 600 quyển tài liệu về nguyên tắc thực hành tốt khi thực hiện bảo trì, bảo dưỡng thiết bị điện lạnh sử dụng môi chất lạnh HCFC-22 trong các kho lạnh và phát cho các kỹ thuật viên làm việc trong lĩnh vực bảo trì, bảo dưỡng thiết bị điện lạnh, kho lạnh.;

·        Tổ chức hội thảo khởi động và tổng kết kết thúc Dự án “Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC của Việt Nam-giai đoạn I”;

·        Phối hợp với Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương tổ chức hội thảo tập huấn về hệ thống cấp phép và kiểm soát xuất, nhập khẩu các chất làm suy giảm tầng ô-dôn theo quy định của Nghị định thư Montreal. 72 cán bộ của Bộ Công Thương đã tham dự hội thảo này;

·        Tổ chức hội thảo giới thiệu Dự án “Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC của Việt Nam-giai đoạn II” (2017-2022) tại Hồ Chí Minh và Hà Nội;

·        Thực hiện kiểm toán tài chính hàng năm (2013-2017) của Dự án;

·        Phối hợp với Ngân hàng Thế giới và các cơ quan, đơn vị có liên quan triển khai công tác điều tra, thu thập thông tin, số liệu để phục vụ xây dựng văn kiện Dự án “Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC của Việt Nam-giai đoạn II”.

Trong quá trình Hội thảo, các đại biểu đã trao đổi ý kiến về những khó khăn, thách thức và những vận hội, thuận lợi trong quá trình thực hiện mục tiêu, nội dung, hoạt động, kết quả dự kiến của Dự án “Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC của Việt Nam-giai đoạn II”, nguyên tắc tham gia Dự án và quá trình chuẩn bị triển khai Dự án trong thời gian tới. Dự án-giai đoạn II do Quỹ Đa phương thi hành Nghị định thư Montreal tài trợ với tổng kinh phí là 14.664.834 USD và sẽ được thực hiện trong giai đoạn 2017-2022.hiện các tiểu dự án; chia sẻ những kinh nghiệm, bài học thành công rút ra từ việc thực hiện Dự án-giai đoạn I cũng như đưa ra một số đề xuất về kỹ thuật, chính sách, tổ chức thực hiện để có thể vận dụng tốt hơn trong Dự án-giai đoạn II.

Các đại biểu tham dự Hội thảo khẳng định Dự án “Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC của Việt Nam-giai đoạn I” đã đạt được các mục tiêu đề ra và đánh giá cao kết quả, thành tựu đạt được của Dự án. Sự thành công của Dự án-giai đoạn I đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thụ hưởng chuyển đổi công nghệ, nâng cao năng suất và tính cạnh tranh trong sản xuất và dịch vụ. Thành quả của Dự án-giai đoạn  I sẽ tạo tiền đề cho việc triển khai Dự án-giai đoạn II trong thời gian tới cũng như góp phần nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam-một nước thành viên tích cực trong việc thực hiện Nghị định  thư Montreal.

Kết thúc Hội thảo, các đại biểu chân thành cảm ơn Bộ Tài nguyên và Môi trường, Cục Biến đổi khí hậu, Ban Quản lý Dự án, các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan và Quỹ Đa phương thi hành Nghị định thư Montreal, Ngân hàng Thế giới đã quan tâm, hỗ trợ các danh nghiệp trong quá trình tham gia Dự án cũng như giúp các doanh nghiệp được các hưởng lợi ích kỹ thuật, kinh tế, môi trường do Dự án mang lại.

 

Nguồn: Cục Biến đổi khí hậu, Bộ TNMT